Tự sát và hành vi tự sát:
Tự sát (suicide) hay tự tử là hành động
của một người cố ý gây ra cái chết cho chính bản thân mình. Tự sát là rất phúc
tạp và bi thảm, là mối quan ngại lớn về sức khỏe cộng đồng, nhưng thường thì có
thể ngăn ngừa được. Biết được các dấu hiệu báo trước tự sát và biết cách hỗ trợ
bệnh nhân có thể cứu được nhiều mạng người.
Cứ mỗi 40 giây, trên thế giới lại có một người
tự sát; mỗi năm có khoảng 10 - 20 triệu vụ tự sát, trong đó có khoảng một triệu
người chết do tự sát (theo Tổ chức Y tế Thế giới - WHO). Ở Việt Nam có khoảng
36.000 - 40.000 người tự sát mỗi năm, với 5.000 người chết vì tự sát do bệnh lý
trầm cảm.
Tự sát là nguyên nhân đứng thứ 13 gây ra tử
vong và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở thanh thiếu niên và người
trưởng thành dưới 35 tuổi. Nhiều thống kê cho thấy, nam giới có tỷ lệ tự sát
thành công cao hơn so với nữ giới, trong khi đó toan tự sát thường ở nữ giới
nhiều hơn.
Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỷ lệ tự sát: Do căng thẳng tâm lý quá sức, stress kéo dài
trong cuộc sống (khó khăn về tài chính, làm ăn thua lỗ, đổ vỡ trong tình cảm,
tình yêu; do mâu thuẫn với gia đình, bạn bè; do mắc bệnh cơ thể nặng, nan y, bị
oan ức, ...) hoặc do một số rối loạn tâm thần gây ra bao gồm trầm cảm, rối
loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt, nghiện rượu và lạm dụng
ma túy (đặc biệt là ma túy tổng hợp).
Phương thức tự sát: thường gặp là treo cổ, nhẩy cầu, dùng dao,
súng đạn, thuốc ngủ và sử dụng các hóa chất nông sản như thuốc trừ sâu, thuốc diệt rầy, thuốc
diệt cỏ, thuốc chuột.
Những dấu hiệu thường gặp của người
có ý định tự tử:
Hay than vãn về sự vô vọng, bế tắc,
không chịu nổi với cuộc sống hiện tại, mất niềm tin vào tương lai; xem mình trở
thành tội lỗi, thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Tâm trạng đột ngột thay đổi, tâm lý cực đoan; thường hay
bực bội, giận dữ, căng thẳng lo âu cùng cực, có cảm giác tội lỗi hay xấu hổ.
Luôn nhắc đến cái chết, muốn được
chết, xem chết là lối thoát duy nhất. Quan tâm đến cái chết như viết thư tuyệt
mệnh, điện thoại, nhắn tin cho người thân, bạn bè nói về sự ra đi của mình. Nói
những lời vĩnh biệt như “Hẹn kiếp sau…”, “chúc ở lại…”. Sưu tầm những câu nói,
bài viết về sự chết chóc.
Chuẩn bị hành lý, sắp xếp công việc
như báo nghỉ ở cơ quan, chuẩn bị quần áo và các phương tiện cá nhân như một
chuyến đi xa; cho đi tài sản có giá trị, sắp xếp tài chính,
bất ngờ viết di chúc; nói lời tạm biệt với những người thân yêu.
Giảm các mối tương tác với gia
đình, bạn bè, tự cô lập bản thân. Không quan tâm tới các hoạt động mà trước đó
rất yêu thích, ngược lại có những hành vi bất thường như: sử dụng chất kích
thích quá mức, lối sống buông thả và bất cần, không nghe lời khuyên của người
thân. Hoặc không ăn, không ngủ, không quan tâm đến việc chăm sóc bản thân.
Chuẩn bị phương tiện để tự tử:
Mua thuốc về giấu trong nhà, dây thắt cổ, dao, kéo, xăng để đốt… Hay lân la đến
các công trình cao tầng, đến cầu, sông, hồ…
Những biện pháp can thiệp khi thấy một người có dấu hiệu
của tự sát
Tiếp cận với đối tượng: Gia đình, người thân cần nói chuyện cởi mở,
chân thành với bệnh nhân. Tìm hiểu, chia sẻ, giải quyết về những khó khăn, những nỗi
u uất, bức xúc, những bế tắc hiện tại, giúp họ vượt qua những vẫn đề đó và có
suy nghĩ, hành động tích cực hơn. Làm
cho họ cảm thấy không còn cô đơn mà luôn luôn có những người tốt bên cạnh mình,
ủng hộ mình trong cuộc sống. Hãy đưa họ ra ngoài, tham gia các hoạt động vui
chơi, ngắm cảnh, thư giãn để đầu óc tỉnh táo hơn; tránh những căng thẳng, sang chấn tâm lý cho bệnh nhân. Luôn để mắt tới mọi hành vi, cử chỉ của họ 24/24h, không
nên để bệnh nhân ở một mình.
Hãy cất hết những phương tiện mà
đối tượng có khả năng dùng để tự tử, đưa họ tránh xa những nhà cao tầng, cầu, sông,
hồ..
Liên hệ với với y tế: Tự
sát là một cấp cứu thuộc chuyên khoa Tâm thần, cần phải nhập viện điều trị nội
trú dưới sự giám sát chặt chẽ của nhân viên y tế. Việc
phát hiện và có biện pháp can thiệp kịp thời các ý tưởng và hành vi tự sát có
tầm quan trọng đặc biệt để giảm tỷ lệ tử vong.
Người bệnh cần
cung cấp những thông tin chính của bản thân bao gồm các căng thẳng trong cuộc sống
hoặc các thay đổi gần đây trong cuộc sống, những suy nghĩ và cảm nhận của bạn;
đồng thời cũng cho bác sĩ biết về bệnh tật và các loại thuốc bạn đang sử dụng.
Bác sĩ có thể khám tổng quát về cơ thể, tâm
thần và thần kinh, cho bạn làm xét nghiệm cận lâm sàng và trắc nghiệm tâm lý để
có được chẩn đoán xác định, từ đó sẽ có được cách điều trị tốt nhất. Không được
bỏ sót bất kỳ một dấu hiệu nào chỉ điểm cho ý nghĩ tự sát, luôn tiên lượng khả
năng tự sát có thể gặp ở mọi trường hợp. Đối với các trường hợp mắc bệnh cơ thể
mạn tính nặng, khó điều trị, các bác sĩ đa khoa cần thăm khám kỹ càng nhằm phát
hiện sớm các dấu hiệu trầm cảm hoặc những suy nghĩ tiêu cực ở người bệnh để có
thể điều trị kịp thời.
Tùy theo nguyên nhân dẫn tới ý tưởng và hành
vi tự sát mà có các phương pháp điều trị cho phù hợp như thuốc, trị liệu tâm
lý, sốc điện não, kích thích từ xuyên sọ,... Đối với các nguyên nhân tâm lý, việc
trị liệu tâm lý (liệu pháp nhận thức hành vi, liệu pháp hành vi biện chứng) có
thể được áp dụng. Trị liệu tâm lý giúp cho có tác dụng nâng đỡ tâm lý, đồng thời
cung cấp những kỹ năng để bệnh nhân ứng phó với những stress có thể xảy ra và
ngăn ngừa nguy cơ. Những trường hợp tự sát do nguyên nhân là trầm cảm, ảo giác,
hoang tưởng chi phối, nghiện chất (rượu, ma túy), những bệnh nhân có ý nghĩ tự
tử nhiều lần thì điều trị bằng thuốc là biện pháp bắt buộc.
Điều trị tích cực các bệnh
cơ thể đồng thời nếu có (khối u, tiểu đường, tim mạch,...). Người bệnh phải tuân thủ hướng dẫn điều trị của
bác sĩ và không tự ý dừng thuốc, tránh sử dụng rượu bia và chất kích thích, đặc
biệt là ma túy. Khuyến khích người bệnh tham gia các hoạt động vui chơi, giải
trí, tập luyện.
Xử trí với trường hợp có hành vi tự sát
Phải xử trí can thiệp khẩn cấp
khi phát hiện có trường hợp tự sát. Tùy theo từng tình huống cụ thể như nhanh chóng đưa người bệnh ra khỏi
khu vực nguy hiểm (cắt dây treo cổ, đưa bệnh nhân lên trên cạn, dập lửa, cắt nguồn điện,…); tiến hành cấp cứu hồi
sinh tim phổi cơ bản, cầm máu, gây nôn; xử trí các thương tích (nếu
có); vận chuyển bệnh nhân đến khoa hồi sức tích cực tại các bệnh viện đa khoa để cấp cứu kịp thời. Sau khi qua cơn nguy kịch
thì điều trị theo nguyên nhân.
Tự sát là một vấn đề sức khỏe công cộng toàn cầu. Mọi lứa tuổi,
giới tính và khu vực trên thế giới đều bị ảnh hưởng và mỗi mất mát đều là quá
nhiều. Tuy nhiên, tự sát có thể được ngăn chặn được với sự quan tâm của xã hội,
gia đình và mỗi cá nhân. Phát hiện sớm và can thiệp kịp thời các rối loạn tâm
thần (trầm cảm, sang chấn tâm lý - stress, lạm dụng chất gây nghiện, tâm thần
phân liệt,…) sẽ giúp phòng ngừa vấn nạn tự sát trong cộng đồng.